Cái quán ở địa điểm lạ: “Bốn bề lặng lẽ như tờ. Chỉ có gió sáng tháng chín se lạnh và lồng lộng nắng vàng cuối thu”.

Chính nó cũng lạ:
“Không treo biển (...) Không trang trí (...) Vắng teo (...) Phòng tiệc (có) phông vĩ đại là cánh đồng vàng cùng vòm trời mùa thu trong veo không một gợn mây”.

Quán nuôi một con thịt lạ. Nhưng cũng chưa lạ bằng cái cách nó được hóa thành món ăn. Đâu đấy xong cả rồi, nhìn vào giữa chiếu tiệc thì lại thấy không có gì lạ hết, chẳng qua nghệ thuật ăn uống của dân tộc hiện thành hình:
“... một đĩa rau thơm, một đĩa ớt đỏ, một đĩa tôm chua cùng các thứ ăn kèm như gừng xắt chỉ, khế xanh, chuối chát, hành chẻ, thịt lợn ba chỉ (...) xếp sắp hài hòa đẹp mắt chung quanh cái khay đựng bún lá, trông như bức tranh, lại như bông hoa mỗi cánh một mầu vừa nở trên mặt chiếu”.

Ngắm “tranh” xem “hoa” này, làm sao khỏi nhớ ngay đến… Thì đây:
“Cái nút lá chuối (...) vừa bật khỏi miệng hũ, tôi và Tuyến cùng sững sờ. Rượu gì mà chưa uống đã thấy ấm ran người, và cứ ngỡ như mình đang được ngồi giữa ruộng lúa nếp cái trổ đòng đòng”.

Cái lạ cuối cùng ở quán Tư Hiền: khi đặc sản dọn lên,
“cả chủ (quán) và khách cùng vào tiệc”! (Thu Tứ)



“Thịt rết qua cầu”

Triệu Bôn




Tiếng mành trúc lao xao một lát rồi chủ quán mới hiện ra. Thoáng trông, tôi ngỡ ông là dân vạn chài vùng biển. Cao lớn, quần áo bà ba nhuộm gụ, da đỏ au, để râu dài, và đi guốc. Ông nhìn hai chúng tôi từ đầu đến chân, hỏi:

- Các chú muốn gì?

Cậu Tuyến bạn tôi ấp úng:

- Đây có phải quán đặc sản rết?

- Phải. Nhưng ví các cậu có dày không mà đến đây?

Tôi chạnh tự ái:

- Theo ông, phải bao nhiêu mới gọi là dày?

- Tùy. Tiền triệu cũng gọi là dày, tiền trăm cũng gọi là dày. Mà tay không cũng gọi là dày.

- Thế thì ông cho chúng tôi thưởng thức đặc sản của ông đi. Nếu ví không đủ dày, đã có cái kia - tôi chỉ vào cái xe máy to lênh khênh như con lạc đà của bạn tôi dựng trước quán - được chưa?

Ông già vuốt chòm râu rủ xuống tới cái cúc áo thứ hai trước ngực, lẹp kẹp lê guốc quay vào. Tiếng mành trúc bên trong lại lao xao và tiếng ông già vọng ra: “Các chú vào đây. Quán này, ai cũng phải làm mới có ăn. Thích ngồi một chỗ gọi bồi bàn, thì đi nơi khác.”

Tuyến đưa mắt nhìn tôi. Tôi cũng liếc sang nó. Hai đứa ngầm trao đổi với nhau một cảm giác rờn rợn như lạc vào một tửu quán nơi Lương Sơn Bạc. Có điều Lương Sơn Bạc này không hồ rộng núi cao, không đèo dốc hiểm trở, mà là bên một cánh đồng lúa vàng bát ngát trải dọc theo quốc lộ 6, ở phía tây thủ đô Hà Nội. Còn “Tụ nghĩa đường” chỉ là ngôi nhà tre lợp lá cọ, rộng mông mênh, ngoài cổng có giàn hoa giấy và một cây đại sù sì hình như đã sống cả nghìn năm.

Dưới gốc đại là cái cổng tre có hai thanh chốt ngang, thứ cổng cực kỳ “cổ điển” ở nông thôn. Và qua khỏi đó là con đường đất thẳng, dưới hai hàng nhãn, quét sạch như ly như lau.

Khi chúng tôi dắt xe qua cái cổng chốt, ông chủ quán ra chốt cửa lại. Vừa chốt ông vừa lẩm bẩm nói trống không, cốt giải thích cho chúng tôi hiểu:

- Quán Tư Hiền không bao giờ tiếp khách quá ba lần một ngày. Không bao giờ tiếp hai hội khách cùng một lúc.

Các thủ tục tiếp đón thế là đã xong. Không treo biển quán. Không trang trí lòe loẹt để mời chào. Vắng teo. Bốn bề lặng lẽ như tờ. Chỉ có gió sáng tháng chín se lạnh và lồng lộng nắng vàng cuối thu.

(...)

Phòng tiệc quán Tư Hiền chỉ là một chái lợp lá, vẩy ra sau hồi nhà, bên cạnh con mương thủy lợi, và phải kể thêm cả cái phông vĩ đại là cánh đồng vàng cùng vòm trời mùa thu trong veo không một gợn mây. Nền không lát gạch, mà là thứ đất nện phẳng như mặt kính. Gần một nửa diện tích trong phòng dùng để dựng nên một phong cảnh núi non hùng vĩ, tất cả đều được đắp bằng đất sét. Ở một “sườn núi” đổ dốc xuống “khe” cạn ngoằn ngoèo, có một cái lồng lưới sắt, bên trong lúc nhúc tới vài trăm con rết, không con nào thật to, chỉ sàn sàn cỡ cái bút chì, cái bút máy trở xuống; nhưng cũng không có con nào quá nhỏ.

Từ cái “trại rết” này, có chiếc cầu qua “khe” cạn, là một thanh nứa dài uốn cong, bắc sang mảnh sân rộng chừng nửa tờ báo được quây kín ba phía bằng lưới thép. Ngay dưới cây cầu vồng nứa, trong lòng khe cạn, có ông đầu rau đội một cái chảo nhôm rộng vành đựng nước.

Ông Tư Hiền ném vào sân một con gà giò đã mổ sạch sẽ; lại để cạnh con gà một cái nắp ga-men đựng nước trong, ông bảo là rượu. Đoạn, ông đưa cho tôi và Tuyến mỗi đứa một cái que nhỏ, rồi mở cửa “trại” rết.

- Các chú thích ăn bao nhiêu con thì gạt chúng ra.

Bọn rết đói ngửi thấy mùi thịt gà sống liền nháo nhào dẫm đạp lên nhau. Chẳng đợi chúng tôi phải gạt, chúng kìn kìn kéo ra khỏi cửa lồng, chen chúc bò qua cầu... Ông Tư Hiền hỏi Tuyến “Thế đủ ăn chưa”? Tuyến gật đầu. Cái cửa lồng được sập lại. Ở mảnh sân bên kia cầu có khoảng bốn, năm chục con rết đang bâu quanh con gà ăn rào rào. Không ngờ lũ rết phàm ăn đến thế. Con gà chừng bảy, tám lạng, mà mươi phút sau chỉ còn trơ lại bộ xương. Ăn xong con nào con nấy bụng phình ra, lại vục đầu vào cái nắp ga-men tranh nhau uống nước mà kỳ thực là uống rượu. Cha sinh mẹ đẻ ra lũ rết chưa bao giờ được nếm cái thứ nước kỳ quái ấy của loài người. Lại, từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ tôi mới được thấy cảnh lũ rết say rượu ngất ngư bò qua thanh nứa uốn cong để về lồng. Nhưng chẳng con nào về được lồng. Chảo nước bên dưới cái cầu vồng kia đã sôi bùng bùng từ lúc nào. Lũ rết say qua đó gặp hơi nước xông lên đều lần lượt rơi lõm bõm xuống chảo.

Đợi hóa kiếp cho con rết cuối cùng xong, ông Tư Hiền cầm cái môi dùi lỗ như môi nhúng bánh phở, sục vào chảo vớt rết lên. Mỗi con ông cầm tuốt một nhát, xếp vào chiếc đĩa sứ. Thoắt cái, đĩa rết trắng ngần như đĩa ngó cần, đầy có ngọn.

Hóa ra trong quán còn một ông già nữa mà ông Tư Hiền giới thiệu là chú Năm Úc. Ông Năm Úc người xương xương, cũng bận quần áo bà ba nhuộm gụ, cũng để râu dài nhưng khác với ông Tư Hiền là có mái tóc búi tó như quả bưởi treo sau ót.

Ông Năm Úc chắp tay khiêm nhường chào khách, mỉm cười không nói. Ông xuất hiện với những công việc của người phục vụ: trải chiếu ra nền đất, xếp cây đèn cồn và mấy cái soong có cán bằng thép không rỉ vào một góc. Tiếp sau, ông bê một đĩa rau thơm, một đĩa ớt đỏ, một đĩa tôm chua cùng các thứ ăn kèm như bát gừng xắt chỉ, khế xanh, chuối chát, hành chẻ, thịt lợn ba chỉ... món nào cũng được thái mỏng, xếp sắp hài hòa đẹp mắt chung quanh cái khay đựng bún lá, trông như bức tranh, lại như bông hoa mỗi cánh một mầu vừa nở trên mặt chiếu.

Ông Tư Hiền bê ra một hũ sành nút lá chuối. Cả chủ và khách cùng vào tiệc. Với cây đèn cồn, lọ dầu rán thực vật, mấy cái soong có cán, ai muốn ăn rết luộc, rết nướng, rết đảo dầu... ông Năm Úc vui vẻ chiều ý (…)

Những năm đánh Mỹ trong Nam, chúng tôi (...) suy tôn món thịt rết ngang hàng với món tôm sú, tôm nghệ, tôm gạo, tôm he ở các cửa biển miệt rừng đước ven bờ vịnh Thái-lan (...) Tôi chọn món rết nướng lửa đèn cồn, rất “truyền thống” con nhà lính. Tuyến đòi thưởng thức cả ba món. Ông Tư Hiền gật gù với ông Năm Úc.

- Chú cho tôi món tái dấm.

Thế là cả Tuyến và tôi cùng đòi theo. Rết tái dấm, nghe đủ mê rồi. Chỉ nệ ông Năm Úc bận rộn thêm một lúc nữa. Rồi chúng tôi chuẩn bị nâng chén. Cái nút lá chuối trong tay ông Tư Hiền vừa bật khỏi miệng hũ, tôi và Tuyến cùng sững sờ. Rượu gì mà chưa uống đã thấy ấm ran người, và cứ ngỡ như mình đang được ngồi giữa ruộng lúa nếp cái trổ đòng đòng.

Tôi nhìn Tuyến, thay cho câu hỏi: ở bên ấy cậu uống rượu nho mấy trăm tuổi, uống cỏ-nhác, uýt-ky, các loại rượu thượng thặng của xứ Tây, đã được nếm loại “thánh tửu” này lần nào chưa?

Hình như Tuyến không hiểu ý tôi. Nó ngồi ngây như phỗng, hai cánh mũi phập phồng. Tay nâng chén rượu sáng long lanh từ tay ông Tư Hiền trao, cu cậu chỉ dám chạm ướt môi rồi lại ngẩng lên, đầu nghiêng nghiêng ra vẻ ngẫm ngợi, ra vẻ cố mà chiêm ngưỡng một kỳ tích vô tiền khoáng hậu trong cõi trời đất bao la. Bất ngờ, Tuyến buông một câu hỏi rất chi là thị trường:

- Rượu này bao nhiêu một lít, bác?

Ông Tư Hiền cười rung cả chòm râu:

- Của đâu mà có lắm thế? Nhân thể tôi nói cho các chú hay: rượu này không ở đâu có, ngoài quán Tư Hiền. Chính tay Tư Hiền lựa giống nếp cái hoa vàng, chính tay Tư Hiền ủ, cất. Do đó mà không bán, không tính tiền với khách. Nếu tính, chắc phải mười đô-la một chén...

Tuyến nghe thế giật mình. Ông già càng cười to, chỉ đũa vào đĩa tôm chua:

- Món này là “độc chiêu” của chú Năm nhà tôi. Chú ấy phải xuống tận cửa sông Vân Úc, đón tôm nước lợ, mua lúc còn búng tanh tách. Rồi phải muối ngay dưới đó mang về.

Thịt rết, tôm chua, khế xanh, chuối chát... gắp sáu, bảy gắp mới vừa một miếng và, thêm ngụm “thánh tửu”, bỗng như trời và đất, mây và nắng hòa nhập cả vào mình đưa mình bay lên tột cùng vũ trụ.


24-11-1996

(Trích “Quán nhậu”. Nhan đề phần trích tạm đặt.)