Tiếng chim trong như ngọc tỏa khắp vườn như một mùi hương! Khu vườn vốn đã có hương thật, của hoa nguyệt quế. Trong cái không gian thơm tai thơm mũi, từng có một người “ngồi trên chiếc ghế gỗ bạc sơn dưới những tán lá (...) uống trà và nhìn (...) chim (...) về (...) tổ (...) cho đến khi bóng tối tràn ngập”. Người ấy từng “dậy từ hai giờ sáng để đi đò sang bên kia sông và đạp xe đến những đầm nước ven chân núi xem mòng két có còn về đó kiếm ăn không”... Câu chuyện là lạ, có làm ai thấy như “một làn gió trong lành thổi từ một đầm nước lớn vào lòng” không?

(Thu Tứ)



Vương Thảo, “Quà tặng của một ngày”



Vào ngày lễ Ba ngày của cha tôi, theo phong tục, chúng tôi sẽ làm lễ phóng sinh cho 20 con chim ri. Từ chiều hôm trước, cháu tôi mua chim từ một chợ chim ở thành phố mang về. Chiếc lồng được treo dưới một tán cây trong vườn. Tôi đã nghe tiếng những con chim ri kêu khe khẽ suốt đêm.

Sáng hôm sau, làm lễ xong, chúng tôi mở cửa lồng thả chim. Những con chim ri bé xíu đập cánh hoảng hốt. Một lúc sau chúng mới tìm thấy lối ra. Có lẽ do bị nhốt quá lâu, bầy chim khi ra khỏi lồng không bay đi. Chúng vừa đập cánh vừa nhảy trên mặt cỏ trong vườn. Hai mươi con chim đứng dạt vào nhau. Chúng mở những đôi mắt nhỏ như hai hạt vừng đen ngơ ngác nhìn quanh. Tôi nhìn bầy chim và thì thầm: “Hãy bay đi, hãy bay về những vòm cây của chúng mày. Bay đi nào. Ðừng sợ nữa.”

Ngay sau đó, một con chim đập cánh bay lên một vòm cây gần đó. Khi đã đậu trên một nhánh cây nhỏ, con chim ri bắt đầu hót đúng giọng điệu của một con chim tự do. Tiếng nó trong vắt và tan vào khu vườn như sự tỏa hương của những chùm nguyệt quế. Tiếng hót thôi thúc những con chim vẫn còn đang ngơ ngác và run rẩy trên đám cỏ. Và 19 con chim ri còn lại như đã nhận ra thế giới của chúng. Tất cả cùng đập cánh và bay lên vòm cây. Ðến lúc này, tiếng hót của 20 con chim ri làm cả khu vườn như có hàng trăm quả chuông nhỏ xíu đang được những bàn tay vô hình lắc vang.

Tôi đứng lặng trong vườn nhìn về phía vòm lá như một cậu bé con. Tâm hồn tôi ngập trong tiếng chim của một buổi sáng đầu hạ, một buổi sáng mà trái tim tôi đang đau đớn bởi sự ra đi của cha tôi. Nhưng tôi nhận ra, có một lời an ủi bí ẩn đang làm trái tim tôi dịu bớt buồn đau. Có một cánh cửa vô hình đang từ từ mở ra cho tôi nhìn vào và thấy những điều mới mẻ mà đời sống với quá nhiều u buồn và mất mát đã đóng lại từ lúc nào.

Sau những tiếng hót của bầy chim ri như lời cảm ơn lòng tốt vô tình của chúng tôi và cũng như lời giã biệt, hai mươi con chim ri đập cánh rời khỏi khu vườn ra đi. Tôi thầm cầu chúc cho những con chim ấy không bao giờ bị bắt lại và bị giam cầm trong những chiếc lồng ở chợ chim nữa. Từ ngày ấy, mỗi khi trở về nhà và đứng trong khu vườn mỗi buổi sáng, tôi vẫn nghe tiếng đập cánh của bầy chim trong vòm lá xanh thẫm và tiếng hót trong như ngọc của chúng. Và lần nào cũng vậy, cảm giác ấy như một làn gió trong lành thổi từ một đầm nước lớn vào lòng tôi.

Thời gian cứ thế trôi đi. Ðến một ngày, có một sự kỳ diệu hiện ra trong chính khu vườn nơi chúng tôi làm lễ phóng sinh 20 con chim ri một năm trước. Ðó là ngày giỗ đầu cha tôi. Buổi sáng ấy tôi dậy rất sớm và bước ra vườn như thường lệ. Ðó là một ngày đầu hạ. Những vòm lá xanh mướt sau một đêm mưa. Những chùm nguyệt quế nở trắng muốt và tỏa hương ngào ngạt. Tôi bỗng nghe tiếng hót bầy chim ri vang lên như một làn gió từ đầm nước ùa về. Tôi nghĩ đó là tiếng hót bầy chim trong ký ức của tôi. Nhưng tiếng hót bỗng tràn ngập khu vườn.

Và từ một chân trời nào đó, bầy chim ri sà xuống khu vườn. Tôi không thể đếm xem có bao nhiêu con chim ri trở về khu vườn lúc đó. Nhưng tôi tin rằng: có 20 con. Và đó là 20 con chim mà chúng tôi đã thả trong một ngày đau buồn của mình. Bầy chim sà xuống vòm lá của một năm về trước, chuyền nhảy và đập cánh làm xao động. Rồi chúng sà xuống đám cỏ khu vườn đúng nơi chúng đã đứng dạt vào nhau run rẩy và sợ hãi một ngày đầu hạ một năm về trước. Chúng bay nhảy trên đám cỏ chỉ cách tôi một, hai bước chân không hề sợ sệt và hót vang.

Cảm giác đau buồn trong tôi về sự ra đi mãi mãi của cha tôi như biến mất. Những ý nghĩ và cảm xúc về sự sống và cái chết trong tôi đã thay đổi. Lúc đó, dù chỉ là một khoảnh khắc nhanh hơn một cái chớp mắt, tôi thấy cha tôi đang ngồi trên chiếc ghế gỗ bạc sơn dưới những tán lá trong vườn uống trà như trong những buổi chiều mùa hạ trước kia. Tôi thấy cha tôi mỉm cười. Tôi chợt nhớ lại thi thoảng tôi về thăm cha tôi những ngày cuối tuần, ông thường dẫn tôi ra vườn và chỉ cho tôi những tổ chim mới làm trong những tán lá. Có những buổi chiều, cha tôi ngồi trong vườn uống trà và nhìn bầy chim trở về những chiếc tổ của chúng cho đến khi bóng tối tràn ngập.

Tôi nhớ một đêm khi tôi còn trẻ. Ðó là một đêm có tiếng mưa đổ xuống lúc gần sáng. Cha tôi vội mở cửa ra sân vì ông tưởng đó là tiếng đập cánh của bầy mòng két đã biến mất trong nhiều năm giờ lại trở về. Làng tôi nằm trên đường bay của những đàn mòng két trong mùa đi ăn của chúng thường vào tháng Mười. Những đàn mòng két có lẽ đến hàng ngàn con bay qua làng tôi về những đầm nước ven chân dãy núi đá vôi giữa Hà Tây và Hòa Bình. Tiếng đập cánh của chúng vang lên như một cơn mưa lớn. Nhưng rồi do săn bắn và môi trường bị tàn phá, mòng két biến mất cho đến tận bây giờ. Hồi đó, có nhiều lần cha tôi dậy từ hai giờ sáng để đi đò sang bên kia sông và đạp xe đến những đầm nước ven chân núi xem mòng két có còn về đó kiếm ăn không. Và lần nào trở về cha tôi cũng thất vọng (...)

Bay nhảy trên cỏ và hót vang một lúc rồi bầy chim ri đập cánh bay đi. Tôi đứng mãi trong khu vườn và cảm thấy trong đôi bàn tay mình ai đó đã đặt vào một món quà (...)