Vì chúa dại gái, con gái chúa suýt bị một tên vô lại “vần (...) cho nẫu nhừ ra như bùn”! Vì chúa dại gái, cơ nghiệp hai trăm năm của họ Trịnh sắp sửa nẫu nhừ ra như bùn! Ðã dại, đến chết vẫn dại! (Thu Tứ)



Hoàng Lê nhất thống chí (II.1)

Ngô Thời Chí




Chương II


Lập Điện đô, bảy quan nhận di chúc,
Giết Huy quận, ba quân phò Trịnh vương.



Hồi 1: ĐẾN CHẾT VẪN DẠI!


Lại nói, Đặng Mậu Lân tuy đã lấy được quận chúa Ngọc Lan, nhưng cứ mỗi lần vào với quận chúa thì lại bị Sử trung hầu ngăn cản; vì vậy Lân hết sức tức giận, nói với hầu rằng:

- Chúa bảo con gái chúa là tiên dưới trần, nhưng ta coi ra, thật không bằng con bé ở xách giày nhà ta, có quý hoá gì? Đây ta không phải ham gì nhan sắc của nó; nhưng tốn kém mất bao nhiêu tiền của mới lấy được một con vợ, nếu không ra hồn thì cũng phải vần một trận cho nẫu nhừ ra như bùn, để đền đắp lại sự phí tổn, rồi bấy giờ sẽ tống cổ nó đi. Còn mày, mày muốn sống muốn tốt thì hãy tìm đường kiếm nẻo mà bước đi. Kẻo nữa lại kêu ta không bảo trước.

Sử Trung hầu đáp:

- Đó là mật chỉ của chúa thượng, không phải tôi dám như vậy!

Lân nói:

- Mày thử hỏi chúa, xem chúa ở vào địa vị tao liệu chúa có nhịn được không?

Sử Trung hầu nói:

- Quan lớn đừng nên quá lời như vậy, nhà chúa không thể so sánh với người thường.

Lân nổi giận đùng đùng mà rằng:

- À, mày đem chúa để doạ tao phỏng? Chúa là cái quái gì?

Dứt lời, Lân tuốt gươm chém Sử Trung hầu chết ngay tại chỗ.

Xong Lân sai đóng chặt cửa dinh, ra lệnh trong không được ra, ngoài không được vào, định ngầm thủ tiêu cái thây.

Ngọc Lan nghe chuyện, sợ quá, lập tức bảo một thị nữ chui qua một lỗ hở nhỏ chạy về phủ chúa báo tin.

Chúa cả giận, sai viên quan hầu đốc thúc một toán lính đến bắt Lân.

Lân cầm gươm lăm lăm, đứng trước cửa doạ:

- Đứa nào muốn chết thì cứ vào đây!

Chúa lại phải sai quận Huy đem quân vây bắt Lân, giải về phủ, giao cho triều đình xử tội. Các quan đều nói tội đáng bêu đầu.

Thị Huệ nghe tin, khóc lóc xin chết thay em. Chúa bất đắc dĩ phải tha cho Lân tội chết và giảm xuống thành tội đi đày ở châu xa.

Lại nói, vương tử Cán rất tuấn tú, thông minh, nhưng người vốn yếu đuối. Lúc còn ẵm ngửa, vương tử đã mắc chứng cam: bụng to, rốn lồi, da nhợt, gân xanh, chân tay gầy khẳng khiu. Chúa phải sai người đi tìm danh y khắp bốn phương về chữa cho vương tử (Hải thượng lãn ông Lê Hữu Trác cũng đã từng bị triệu vào kinh để chữa bệnh cho Cán (xem Thượng kinh ký sự). Những người do nghề thuốc mà vào phủ đều được thăng thưởng: Nguyễn Thực từ chức huấn đạo lên đến chức tiến triều; Chu Nghĩa Long là người khách buôn Trung Quốc, được phong tước hầu. Thuốc thang tốn kém kể có hàng trăm vạn, nhưng chạy chữa hết năm này qua năm khác mà bệnh vẫn không khỏi.

Chúa lại sai người đi lễ bái khắp các đền đài có tiếng linh thiêng; một mặt cho thiết lập đàn tràng ở ngay trong cung để ngày đêm đèn nhang cầu khẩn. Vậy mà bệnh của vương tử vẫn đâu hoàn đấy.

Có kẻ tố cáo với chúa, nói là vì Tiệp dư (Tiệp dư đây không rõ là ai, bản chữ Hán không ghi tên họ người nào; bản dịch của Ngô Tất Tố cho là Dương Ngọc Hoan có lẽ phỏng đoán) không được yêu, sinh ra ghen ghét, mượn bọn đồng cốt chôn hình người gỗ ở trong cung để trấn yểm.

Chúa giận lắm, sai bắt người nhà Tiệp dư để tra hỏi. Nhưng bọn ấy trốn hết, tìm khắp tứ phía không lùng bắt được người nào cả. Sau, kẻ tố cáo tự dẫn người đến đào chỗ chôn người gỗ, cũng không thấy gì, việc này mới thôi.

Tuy nhiên, bụng chúa cũng vẫn còn ngờ, nên cứ để mặc cho Thị Huệ làm chay làm bùa, tha hồ cúng lễ. Do đó, bọn đồng cốt ra vào tấp nập; mà bệnh của vương tử Cán vẫn khi tăng khi giảm chẳng ra thế nào.

Đến khi thế tử Tông bị tội, thì gặp lúc bệnh của vương tử Cán đã hơi đỡ. Năm sau vương tử lên đậu, từ tuần nung mủ đến tuần đậu lặn đều không có gì quản ngại. Chúa hết sức vui mừng nói:

- Thì ra trẻ con cam sài cũng là sự thường, chẳng cần phải lo. Mà hễ nó đã lên đậu, lên sởi thì tức là nên người rồi.

Bấy giờ các quan trong ngoài đều có lời chúc mừng.

Nhiều người khuyên chúa giáng chỉ lập vương tử Cán làm đông cung thế tử cho yên sự mong mỏi của thiên hạ. Chúa nghe lời ngay.

Thánh mẫu (tức là mẹ Trịnh Sâm) được tin liền nói với chúa:

- Tông với Cán đều là cháu cả, già này thực không coi đứa nào hơn đứa nào. Có điều thế tử đã lớn và khoẻ mạnh, còn vương tử thì nhỏ tuổi lại hay đau yếu; khuyên chúa hãy nghĩ đến tôn miếu xã tắc, tạm dành ngôi đông cung lại đó, may ra đứa con út (chỉ Tông vì Tông bị giáng xuống làm con út) kia nó biết hối lỗi thì hay, bằng không, đợi lúc vương tử khôn lớn hãy lập trưởng cũng chưa muộn gì.

Chúa đáp:

- Tên Tông và tên Cán đối với mẹ là cháu, chưa bằng đối với tôi là con. Người xưa đã nói: "Biết con chẳng ai bằng cha". Tôi cũng chưa đến nỗi mê lẫn, vả chăng triều đình bàn bạc chung như thế, chứ cũng chẳng phải vì tôi yêu đứa con nhỏ mà bày đặt ra việc này. Mẹ há chẳng biết rõ rồi sao? Nay nếu không sớm định người nối ngôi, bọn tiểu nhân đâm ra dòm nom, mong chờ, tôi e tai hoạ sẽ xảy đến lúc nào không biết. Huống hồ ngôi báu của thiên hạ cốt phải giao phó vào tay người xứng đáng. Đã coi tôn xã làm trọng, thì dẫu con đẻ ra cũng không được tư túi; lẽ nào tôi lại dám tư túi với đứa con nhỏ? Nếu như cuối cùng bệnh của Cán không khỏi, thì thà lập Côn quận công (có bản chép là Quế quận công, tức Trịnh Bồng, anh em con chú bác với Sâm, con Trịnh Giang), trả lại dòng chính cho nhà bác; chứ không thể nào giao cho cái thằng Tông bất hiếu, để nó làm hỏng cơ nghiệp của tổ tiên.

Thánh mẫu không dám nói gì nữa.

Chúa bèn sai các quan trong triều làm tờ tâu lên vua Lê, xin lập vương tử Cán làm thế tử.

Bấy giờ có nhiều người không đồng tình việc lập Cán, nên đặt ra câu ca dao:

"Đục cùn thì giữ lấy tông:
Đục long, cán gãy, còn mong nỗi gì?"

Lại nói, từ mấy năm nay, bệnh cũ của chúa vẫn thường hay phát trở lại, khi thì một tháng, khi thì nửa tháng. Mỗi lần bệnh phát thường hết sức nguy kịch, nhưng rồi dần dần cũng lại khỏi. Chúa rất sợ nắng gió, bình thường phải ở luôn trong thâm cung và nơi đó phải thắp nến suốt đêm ngày. Nếu không phải triều hội lớn, thì không bao giờ chúa ra gặp các quan. Sập ngự trong phủ chúa có che trướng thuỷ tinh, kiệu của chúa đi cũng treo rèm thuỷ tinh, để ngăn nắng gió. Các quan muốn trình báo việc gì, đều do quan hầu đem tờ khải vào. Chúa muốn phán gì cũng do quan thị truyền chỉ ra. Dẫu đến các bậc thân quí, cũng phải một năm hoặc nửa năm mới gặp mặt chúa một lần. Còn các hàng văn võ trong triều, thì thường không hề được thấy mặt rồng. Việc của phủ chúa, bên ngoài người ta đồn đại như là việc thiên tào. Cứ như thế, sự ngăn cách, che lấp ngày càng thêm tệ.

Đến lúc này, bệnh của chúa lại nguy kịch. Thị Huệ ngày đêm hầu hạ. Trong hàng đại thần chỉ có quận Huy là được ra vào. Mẹ chúa và các con gái chúa cũng ít khi được tới gặp, hàng ngày thăm hỏi sức khoẻ của chúa, họ chỉ đứng ngoài cửa buồng và hỏi qua bọn quan hầu mà thôi.

Nhân cơ hội ấy, Thị Huệ bèn nói với chúa:

- Thiếp thờ chúa thượng, nhờ ơn được quá thương yêu, thành ra nhiều kẻ thù ghét; không biết rồi đây mẹ con thiếp sẽ gửi thân vào đâu?

Chúa yên ủi rằng:

- Thế tử đã chính thức lên ngôi đông cung, nước là nước của nó; rồi đây khanh sẽ làm mẹ cả thiên hạ, kẻ nào còn thay đổi được?

Thị Huệ lại thưa:

- Sợ không dự định trước, đến lúc tình thế khẩn cấp sẽ bị người khác cướp mất.

Bấy giờ quận Huy cũng có ở đó. Chúa nhìn Huy nói:

- Sau này ngươi cần hết sức giúp đỡ.

Quận Huy thưa:

- Tôi dám đâu chẳng hết lòng về việc này kỳ cho đến chết. Nhưng ngay bây giờ, nhân lúc chúa còn tỉnh táo, xin hãy kịp thời truyền mệnh lệnh cho đông cung nối ngôi và lập Đặng phi làm chính cung, cùng coi việc nước, để cho có mệnh lệnh sẵn sàng.

Chúa khen:

- Phải đấy! Khanh cần làm phụ chính cho vương tử.

Quận Huy lại thưa:

- Vâng lời di chúc làm người phụ chính, tôi chẳng dám gánh vác một mình. Hiện nay có Khanh quận công là bậc chí thân, Hoàn quận công là bậc sư phó đại thần, Châu quận công và Tứ xuyên hầu đều ở trong chính phủ, vốn có đức vọng, Diễm quận công là a bảo của đông cung, Thuỳ trung hầu là bảo vệ của đông cung, đều là những bầy tôi tin cậy. Vậy xin nhà chúa hãy cho phép những viên ấy cùng nhận cố mệnh (mệnh dặn lại lúc sắp chết) với tôi.

Chúa bằng lòng.

Quận Huy liền sai Tứ xuyên hầu thảo tờ cố mệnh, và quan thiêm sai Nhữ Công Điền làm tờ sách phong Tuyên phi. Giấy tờ lập xong, Huy bỏ vào tay áo đem dâng chúa để xin điền tên.

Bấy giờ bệnh chúa đã nguy kịch, nhân có thánh mẫu vào thăm, Thị Huệ phải ôm chúa ngồi dậy. Thánh mẫu đứng ở đầu sập vừa khóc vừa hỏi han. Chúa cũng khóc mà rằng:

- Con xin chắp tay cúi đầu lạy mẹ. Nay con chẳng may xấu số, không được thờ mẹ cho đến cùng. Nghĩ đến đạo hiếu chưa tròn, ruột gan con đau như dao cắt. Xin mẹ hãy ngự giá về cung, cố ăn ngủ cho thảnh thơi, đừng nghĩ gì đến con mà đau lòng mẹ. Còn việc sớm hôm thăm hỏi sau này đã có tự vương (chúa nối nghiệp, chỉ Trịnh Cán) thay con.

Thánh mẫu nức nở, sụt sịt, ngập ngừng hồi lâu, ý muốn nói đến chuyện truyền ngôi chúa, nhưng vì có Thị Huệ ở đấy nên cũng khó hé răng, dùng dằng mãi chưa ra.

Chúa thấy vậy lại nói:

- Mẹ quá thương con, không nỡ dứt tình mà đi. Con trông thấy mẹ cũng đau lòng không thể nhắm mắt. Vậy cúi xin mẹ hãy ngự giá về cung.

Thánh mẫu bèn ứa nước mắt trở ra.

Chúa quay sang dặn Thị Huệ.

- Bệnh ta không khỏi, không ở được cùng khanh đến lúc bạc đầu. Nay ta về chầu giời, khanh ở lại phụng thờ thánh mẫu, nuôi nấng tự vương; còn duyên sắt cầm đành hẹn đến kiếp khác.

Thị Huệ nấc lên đến hơn một khắc, rồi ả cắt tóc thề rằng:

- Chúa thượng chẳng thương thiếp, nỡ bỏ thiếp vò võ một mình! Thiếp xin liều thân mà chết theo chúa. Thờ phụng thánh mẫu đã có hai quận chúa, giúp rập tự vương đã có các quan đại thần, chúa đừng giao những việc ấy cho thiếp.

Rồi thị khóc oà lên.

Chúa ngoảnh sang Thuỳ trung hầu nói:

- Sau khi ta qua đời, các ngươi phải nên khuyên giải chính cung cho khéo, chớ để nàng liều mình. Vạn nhất nếu không ngăn cản nổi ý chí của nàng, thì cứ để nàng chung thuyền với ta mà đưa đi, cho nàng được hầu hạ ta ở nơi lăng tẩm.

Tiếp đó, chúa cho đòi quận Khanh, quận Hoàn vào chịu cố mệnh.

Hai người vào, chúa truyền miễn lạy và cho ngồi. Hai người khóc lóc hỏi han sức khoẻ. Chúa nói:

- Con xin chắp tay cúi đầu lạy chú, lạy thầy. Chẳng may con bị bệnh nặng, nay đã nguy cấp, muốn cho thế tử Cán lên nối ngôi chúa. Vậy nhờ chú và thầy chung sức đồng lòng, giúp cho qua khỏi bước khó khăn này.

Dứt lời, chúa bảo Thị Huệ đặt mình nằm xuống.

Quận Huy quì xuống, rút tờ cố mệnh trong tay áo dâng trình, nhưng chúa chỉ lấy tay xua đi.

Quận Huy lại thưa rằng:

- Nay thánh thể không yên, mà chỗ đề tên họ trong tờ cố mệnh thì hãy còn để trống, vậy xin chúa hãy để cho vương thân Khanh quận công viết thay.

Chúa không còn nói được nữa, chỉ gật đầu mà thôi.

Quận Khanh bèn lấy bút phê, rồi ngay trước sập chúa, lần lượt viết tên mấy người vào chỗ bỏ trắng trong tờ cố mệnh. Viết xong, lại dâng cho chúa xem; nhưng lúc ấy chúa đã nhắm nghiền hai mắt không biết gì nữa.

Thế là Trịnh vương qua đời. Bữa ấy nhằm ngày 13 tháng quận Huy năm Nhâm-dần (1782). Chúa thọ 44 tuổi, làm chúa được 16 năm.