Ðọc chuyện Mỵ Ê, không khỏi nhớ chuyện Thúy Kiều. Về thái độ của Kiều sau khi Từ Hải chết đứng, có người, như Tản Ðà, lấy làm không phải...(1)

Ðọc người Việt viết về người Chàm, chớ để ý những chữ “mường, man, mọi”. Ðấy chẳng qua là cái lối hạ giá địch thủ vốn hết sức phổ thông khắp thế giới từ xưa tới nay. Người Tàu gọi ta là man, nhưng ta không dã man hơn kẻ tử thù ấy chút nào đâu, chỉ có khác thôi.

(Thu Tứ)

(1) Xem bài Thúy Kiều hầu rượu Hồ Tôn Hiến.



Việt điện u linh tập, “Chuyện Mỵ Ê”



Phu nhân không rõ họ gì, người nước Chiêm Thành, tên là Mỵ Ê, vợ vua Chiêm Thành tên là Sạ Đẩu.

Triều vua Thái Tông nhà Lý, Sạ Đẩu không tu chức cống, thất lễ phiên thần, vua Thái Tông thân hành đem quân nam chinh. Sạ Đẩu bày tượng trận ở sông Bố Chính, dần dần bị vương sư đánh phá; Sạ Đẩu tử trận, các cung phi thê thiếp của Sạ Đẩu đều bị bắt sống đem về. Thuyền về đến sông Lý Nhân, vua nghe phu nhân có sắc đẹp mới mật sai quan Trung sứ vời phu nhân đến chầu ngự thuyền.

Phu nhân không giấu được sự phẫn uất, chối từ rằng:

- Vợ hầu mường mọi, y phục xấu xí, ngôn ngữ quê mùa, không giống các bậc phi tần Trung Hoa, nay quốc phá phu vong, chỉ nguyện có chết là thỏa lòng, nếu áp bức hợp loan sợ ô uế long thể.

Rồi phu nhân mật lấy tấm chăn (vải tốt của Chiêm Thành) quấn kín mình lại, nguyện phó tính mạng cho dòng sông. Một tiếng đánh ầm, hình bóng mỹ nhân đã cuốn theo dòng nước mất tích.

Thái Tông kinh dị, tự hối và cho người cấp cứu nhưng không kịp nữa. Chỗ ấy về sau, mỗi khi đêm vắng sông êm, trăng thanh sao sáng, thường nghe có tiếng đàn bà khóc than, dân trong thôn lấy làm lạ mới làm đơn xin lập đền thờ tự; từ đấy không nghe có tiếng than khóc nữa.

Sau vua Thái Tông ngự đến sông Lý Nhân, thuyền chèo giữa dòng thì trông thấy trên bờ có đền thờ. Vua lấy làm lạ mới hỏi tả hữu; tả hữu đem chuyện phu nhân tâu cho vua nghe. Vua ngồi lặng thinh hồi lâu mới bảo rằng:

- Không ngờ man nữ lại có bậc u trinh như thế, quả là một hạng gái phi thường, thế nào nó cũng báo trẫm.

Đêm ấy đã canh ba, trời gần sáng, hốt nhiên nghe một trận gió thơm, khí lạnh buốt người, thấy một người đàn bà vừa lạy vừa khóc rằng:

- Thiếp nghe đạo làm đàn bà là tòng nhất nhi chung, tiên quốc vương của thiếp tuy chẳng dám cùng Bệ hạ tranh xung nhưng cũng là một bậc nam tử, một phương kỳ tài, thiếp được lam dự khăn lược, ân ái thao vinh: bất hạnh quốc phá phu vong, thiếp đêm ngày thê lương chỉ lo đồ báo, nhưng quần thoa yếu ớt biết tính làm sao? May nhờ hồng ân Bệ hạ sai sứ đưa thiếp xuống tuyền đài cùng chồng hội diện, sở nguyện của thiếp được thỏa mãn rồi còn có linh gì mà dám đến đây đường đột?

Nói đoạn biến mất. Vua thất kinh tỉnh vậy, thời là một giấc chiêm bao. Vua truyền đem lễ vật và rượu đến đền cúng tạ, phong Hiệp Chính nương. Về sau xa gần cầu đảo, đều có linh ứng.

Niên hiệu Trùng Hưng năm đầu, sắc phong Hiệp Chính Hựu Thiện phu nhân, năm thứ tư thêm hai chữ Trinh Liệt. Năm Hưng Long hai mươi mốt gia phong hai chữ Chân Mãnh, đến nay vẫn còn phụng sự, càng thấy linh ứng vậy.


(
Việt điện u linh tập, bản dịch Lê Hữu Mục)