Ðào Tiềm thì về thật, nên viết Qui Khứ Lai Từ. Còn Tô Thùy Yên thì chỉ mới tưởng tượng đến về, nên viết...

Ông Ðào với ông Tô về hay muốn về, đều do không chịu được chuyện xảy ra nơi đang ở, chứ không phải do “nợ tang bồng” đã “trang trắng” mà “vỗ tay reo” mà về như ông Nguyễn (Công Trứ).

Ông Ðào trả ấn từ quan về vui thú ruộng vườn. Ông Tô mơ về “bản trạch”, nhưng trong giấc mơ ít nhất lúc đầu ông chưa vui:

“Tưởng tượng ta về nơi bản trạch
Là rồi một chuyện kể chưa xong”,

“Ta bằng lòng phận que diêm tắt
Chỉ giận sao mồi lửa cháy suông”.

Vì lòng không vui, nên lắng tiếng sóng ông nghe tiếng “biển cử ai rần bãi rã rời”, trông hình “tàu chuối xác xơ” ông thấy “nỗi đời bi thiết xé lưa tưa”...

Thơ Ðào Tiềm người ta hay nói tuy có cái vẻ bình dị, điềm đạm, nhưng không phải là không gọt giũa mà chính là “gọt giũa đến mức tự nhiên”.

Tô Thùy Yên trau chuốt thơ mình cũng rất thành công. Có điều, người có bình dị thì tự nhiên mới là bình dị. Tô Thùy Yên không bình dị, nên thơ Tô Thùy Yên sau khi đến mức tự nhiên vẫn không bình dị.

Cái đẹp muôn vẻ, thơ sao cho lộ được cái vẻ của mình!

(Thu Tứ)



Tô Thùy Yên, “Tưởng tượng ta về nơi bản trạch”


Ðào Tử sắp lìa bỏ nơi nghịch
lữ, trở về nơi bản trạch..., than ôi,
thương thay!
Ðào Tiềm


Tưởng tượng ta về nơi bản trạch
Gió đưa nhớ rải dọc trần gian
Trên đồng ngọn cỏ tranh khom mỏi
Ðời nặng cơn bi lụy dịu dàng

Rồi thôi, im mãi, im vô vọng
Ta tiếc dài sao đã đến đây
Lờn rờn bóng lá đong đưa nắng
Thảm thiết dây leo quấn quít cây

Tưởng tượng ta về nơi bản trạch
Ơn dày chôn trả đất bao dung
Cụm mây trôi rã trong trời lớn
Như giấc chiêm bao thấy giữa chừng

Con đường đi mỏi mà không tận
Lượn sóng trên ghềnh nhọn rách tơi
Ai thở dài chi cho não nuột?
Cơn mưa hư tưởng mơ màng rơi

Tưởng tượng ta về nơi bản trạch
Về luôn như một tiếng kêu khơi
Ðã buông trong bạt ngàn xanh ngắt...
Biển cử ai rần bãi rã rời

Chuồn chuồn vui đậu trên nhành lúa
Ðể lại bay đi lúc kịp buồn
Ðiệu hát nào lan man vướng vất
Như hơi ẩm mục mặt hồ sương

Tưởng tượng ta về nơi bản trạch
Ðóa hoa buông cánh khi tàn hương
Tiếng rụng tuyệt âm rền tịch mịch
Dòng sông tới biển nức tuôn, tuôn...

Các mùa chuyển động trong trời trống
Di điểu qua sông xẻ luống sầu
Ly biệt chẳng từ hạt cát ngọc
Tuần hoàn đến cả giọt sương châu

Tưởng tượng ta về nơi bản trạch
Là rồi một chuyện kể chưa xong
Mùa hè cọ sát điên kim loại
Con quạ kêu ran giữa quãng không

Tàu chuối xác xơ reo ngất ngất
Nỗi đời bi thiết xé lưa tưa
Hòn ngói lia bay bay mặt nước
Chìm sâu dĩ vãng đục không dò

Tưởng tượng ta về nơi bản trạch
Bãi bùn trơ trẽn thủy triều lui
Con còng ẩn nhẫn bò quanh quẩn
Càng nhẹ tênh trên cõi ngậm ngùi

Ta bằng lòng phận que diêm tắt
Chỉ giận sao mồi lửa cháy suông
Thôi nói, bởi còn chi để nói
Núi xa, chim giục giã hoàng hôn

Tưởng tượng ta về nơi bản trạch
Áo phơi xanh phới nhánh đào hồng
Mùa xuân bay múa trên trời biếc
Ta búng văng tàn thuốc xuống sông.


11-7-1972