Trước văn học chữ quốc ngữ, hình như người Việt Nam ít dịch thơ Tàu ra tiếng Việt.

Nguyễn Công Trứ dịch
Thu hứng của Ðỗ Phủ, Nguyễn Khuyến dịch Há Chung Nam sơn quá Hộc Tư sơn nhân túc trí tửu của Lý Bạch, Phan Huy Vịnh dịch Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị, còn lưu truyền tương đối rộng rãi hình như chỉ bấy nhiêu...

Mấy bài thơ ta dịch thơ Tàu vừa kể trên đều hay. Muốn dịch thơ cho hay, trước tiên phải là thi sĩ. Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến ai cũng biết chính là thi sĩ. Còn Phan Huy Vịnh, ông có thường làm thi sĩ hay không mà dịch
Tỳ bà hành hay đến thế...

(Thu Tứ)

(1) Về tác giả bản dịch
Tỳ bà hành nổi tiếng này, các nhà nghiên cứu chưa nhất trí. Có người cho là Nguyễn Công Trứ. Có người, như Hoàng Xuân Hãn, cho là Phan Huy Thực. Ở đây ghi Phan Huy Vịnh, là ghi theo "đa số" mà thôi.



Phan Huy Vịnh, “Tỳ bà hành”



Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu
Người xuống ngựa khách dừng chèo
Chén quỳnh mong cạn nhớ chiều trúc ti
Say những luống ngại khi chia rẽ
Nước mênh mông đượm vẻ gương trong
Ðàn ai nghe vẳng bên sông
Chủ khuây khỏa lại khách dùng dằng xuôi
Tìm tiếng sẽ hỏi ai đàn tá?
Dừng dây tơ nấn ná làm thinh
Dời thuyền ghé lại thăm tình
Chong đèn thêm rượu còn dành tiệc vui
Mời mọc mãi, thấy người bỡ ngỡ
Tay ôm đàn che nửa mặt hoa
Vặn đàn mấy tiếng dạo qua
Dẫu chưa nên khúc tình đà thoảng hay
Nghe não nuột mấy dây buồn bực
Dường than niềm tấm tức bấy lâu
Mày chau tay gẩy khúc sầu
Dãi bầy hết nỗi trước sau muôn vàn
Ngón buông, bắt khoan khoan dìu dặt
Trước Nghê Thường sau thoắt Lục Yêu
Dây to nhường đổ mưa rào
Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng
Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy
Mâm ngọc đâu bỗng nẩy hạt châu
Trong hoa oanh ríu rít nhau
Nước tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh
Nước suối lạnh dây mành ngừng đứt
Ngừng đứt nên phút bặt tiếng tơ
Ôm sầu mang giận ngẩn ngơ
Tiếng tơ lặng ngắt bây giờ càng hay
Bình hạc vỡ tuôn đầy dòng nước
Ngựa sắt giong xô xát tiếng đao
Cung đàn trọn khúc thanh tao
Tiếng buông xé lụa lựa vào bốn dây
Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt
Một vầng trăng trong vắt lòng sông
Ngậm ngùi đàn bát xếp xong
Áo xiêm khép nép hầu mong giãi lời
Rằng: "Xưa vốn là người kẻ chợ
Cồn Hà Mô trú ở lân la
Học đàn từ thuở mười ba
Giáo phường đệ nhất chỉ đà chép tên
Gã Thiện tài sợ phen dừng khúc
Ả Thu nương ghen lúc điểm tô
Ngũ Lăng, chàng trẻ ganh đua
Biết bao the thắm chuốc mua tiếng đàn
Vành lược bạc gẫy tan dịp gõ
Bức quần hồng hoen ố rượu rơi
Năm năm lần lữa vui cười
Mải trăng hoa chẳng đoái hoài xuân thu
Buồn em trảy, lại lo dì thác
Sầu hôm mai đổi khác hình dong
Cửa ngoài xe ngựa vắng không
Thân già mới kết duyên cùng khách thương
Khách trọng lợi khinh đường ly cách
Mải buôn chè sớm tếch nguồn khơi
Thuyền không, đậu bến mặc ai
Quanh thuyền trăng dãi nước trôi lạnh lùng
Ðêm khuya sực nhớ vòng tuổi trẻ
Chợt mơ màng dòng lệ đỏ hoen."
Nghe đàn ta đã chạnh buồn
Lại rầu nghe nỗi nỉ non mấy lời:
"Cùng một lứa bên trời lận đận
Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau
Từ xa kinh khuyết bấy lâu
Tầm Dương đất trích gối sầu hôm mai
Chốn cùng tịch lấy ai vui thích
Tai chẳng nghe đàn địch cả năm
Sông Bồn gần chốn cát lầm
Lau vàng trúc võ âm thầm quanh hiên
Tiếng chi đó nghe liền sớm tối
Cuốc kêu sầu vượn hót véo von
Hoa xuân nở nguyệt thu tròn
Lần lần tay chuốc chén son ngập ngừng
Há chẳng có ca rừng, địch nội?
Giọng líu lo buồn nỗi khó nghe
Tỳ bà nghe dạo canh khuya
Dường như tiên nhạc gần kề bên tai
Hãy ngồi lại gẫy chơi khúc nữa
Sẽ vì nàng soạn sửa bài ca."
Ðứng lâu dường cảm lời ta
Lại ngồi lựa phím đàn đà kíp dây
Nghe não nuột khác tay đàn trước
Khắp tiệc hoa sướt mướt lệ rơi
Lệ ai chan chứa hơn người?
Giang Châu tư mã đượm mùi áo xanh.


(Nguyên tác của Bạch Cư Dị)