“Đun nồi hương cũ...”




Thơ nôm Nguyễn Trãi có câu:

“Giậu thưa thưa, hai khóm cúc
Giường thấp thấp, một nồi hương”.


Nồi hương đặt bên giường? Ðọc rồi thắc mắc, thử tìm.

Ngoài đời, không thấy. Trong sách ta, thoạt tìm cũng không thấy. Ðã chập chờn nghĩ hay cụ Ức Trai tạm mượn nó trong sách Tàu, nhưng lại gạt ngay: thơ Quốc âm thi tập có rau muống, mồng tơi, dọc mùng, bèo, củ ấu, khoai, núc nác v.v., có thả, ương, cấy, phát, cuốc, vãi, vun v.v., Nguyễn Trãi tả cảnh quê mình thực lắm, lẽ nào lại đi rước vào thơ một cái nồi “made in China”!

Nồi hương có xuất hiện trong văn thơ Việt chỗ nào khác nữa chăng, chuyện hãy tạm để đấy.

*

Năm 1293, sứ nhà Nguyên Trần Phu sang Thăng Long, trinh sát văn hóa mấy tháng liền, mắt thấy tai nghe tới đâu ghi ghi chép chép tới đó, thành sách An Nam tức sự. Sách có chỗ kể: “Bên cạnh giường bao giờ cũng có một cái lò đốt lửa rừng rực (...) để tránh khí ẩm bốc lên”.(1) Hẳn sứ Tàu chỉ chép những chuyện phổ biến ở nơi đi sứ mà hiếm hoặc không có ở Tàu, tức những chuyện lạ đối với người Tàu. Cái lò đặt bên cạnh giường đích thị là lò Việt Nam.

Trần Phu qua sau Tết, đất Bắc đã bớt lạnh, nhưng cái “rét nàng Bân”, “rét tháng ba, bà già chết cóng” khiến tổ tiên ta vẫn thích có một cái lò “rừng rực” gần chỗ nằm của mình. Nằm bên lửa là cách chống rét truyền thống của các dân tộc ít người miền cao. Người Kinh cho đến đời Trần còn giữ tục ấy, không biết đã lặng lẽ bỏ nó lúc nào...

Sẵn lò sẵn lửa, nếu đặt luôn lên đấy một cái nồi hương thì vừa được ấm vừa được thơm! Liệu có phải chính cái thứ lò “đập” vào mắt Trần Phu hơn trăm năm sau đã nấu nồi hương đặt bên giường Nguyễn Trãi chăng?

*

Mùi thơm tức là mùi đẹp. Từ lúc có tâm hồn, biết thích cái Ðẹp, mũi nhân loại luôn hóng những thứ mùi thơm.

Ở ta xưa kia, muốn thân thể đầu tóc thơm tho thì nấu nước có bỏ cỏ thơm, rễ thơm, lá thơm vào mà tắm, gội. Còn nếu muốn làm không gian quanh mình có mùi dễ chịu thì hoặc thắp vài nén hương hoặc, cầu kỳ hơn, gầy một lò hương, tức bỏ trầm vào lư mà đốt.

Thắp hương với đốt trầm có gốc Tàu? Dù sao, người Việt Nam vốn có một cách gây thơm thứ ba, chắc gốc bản địa.

Triều Lê, khoảng giữa thế kỷ 15.

“Ở thế nhiều phen thấy khóc cười”.

Nguyễn Trãi chán thấy, xin được thôi ở.

“Rũ bao nhiêu bụi, bụi lầm
Giơ tay áo đến tùng lâm”.


Ra khỏi triều đình, giũ bụi khỏi áo, rồi giơ tay áo lên mà đứng trên mây bay về rừng thông Côn Sơn như một ông tiên!

Tiên về núi thì

“Dầu phải dầu chăng mặc thế
Đắp tai biếng mảng sự vân vân”.


Nghe chi “sự vân vân” nữa, phải quá.

Trong “con am” thanh vắng, kẻ ở ẩn khi ra sân xem hoa nở, khi vào cạnh giường thăm nước trong nồi hương đang sôi riu riu. Ngắm đẹp ngửi thơm, sao khỏi sinh thơ. Thơ sinh hễ đắc ý:

“Ngâm được câu thần, dửng dửng ca”.

Ca rằng:

“Giậu thưa thưa, hai khóm cúc
Giường thấp thấp, một nồi hương
Vượn chim kết bạn non nước quạnh
Cầm sách cùng nhau ngày tháng trường”


Chỉ kết bạn với vượn với chim, chỉ gẩy đàn, đọc sách, xem hoa, ngửi hương, nhưng ngày tháng trên non của Nguyễn Trãi dĩ nhiên rồi cũng không được “trường”.

Bao nhiêu năm sau ngày kẻ thích nằm thơm rời hẳn chốn “bụi lầm” thì cái nồi hương mộc mạc đặt bên giường người Việt Nam nó cũng chán đời mà thôi “ở thế”?

*

Trở lại với chuyện tìm nồi ta trong sách ta. Mấy trăm năm sau Nguyễn Trãi, cái nồi hương nó có vào thơ Việt Nam lần nữa đấy. Truyện Kiều, câu 1930:

“Ngày pho thủ tự đêm nồi tâm hương”.

Lần này, hương là hương trong lòng, không phải hương bên giường. Có lẽ đến thời Nguyễn Du thì cái nồi cũ kỹ ấy đã “lìa giường” khá lâu rồi. Nguyễn đưa nó vào thơ, như thể đun chút hương lòng cho nó!



Thu Tứ
Viết năm 2008




















______________
(1) Trần Phu,
An Nam tức sự, Lê Mạnh Hùng trích dịch, tạp chí Thế Kỷ 21, Mỹ, 7-2001.