“Bến đò lưng núi”




Xuống ga Yên Bái, lên luôn xe khách, xe đánh một vòng có lẽ hơn hai tiếng mới ra đến thị trấn Thác Bà. Cái phố tí hon, nghe đâu mở từ năm xây đập thủy điện.

Trời đã nhá nhem.

Trọ trong một nhà dân hơi lạ, hai tầng, mái bằng, mà xây trên ao, đêm nằm nghe cá quẫy, chờn chợn...

*

Tinh mơ. Mưa lất phất.

- Hay đợi xe ôm, anh ạ.

- Họ bảo không xa. Ði bộ cho khỏe.

Ði một lúc đã ra sát bờ con sông Chảy. Sông nhỏ, cạn, nước trong veo thấy rõ đá lổn nhổn dưới đáy. Nước chảy xiết bị đá cản làm “rỗ” mặt, có nơi bọt trắng xóa. Cây bờ thấp bé, đang ra lộc, màu xanh lộc nổi bật trên nền đất đỏ triền sông. Con sông này, mấy chục năm trước, chỗ đang đứng cá tôm còn bơi lội. Nước một dòng bị đập ngăn thành hai khúc, khúc trên phềnh to nuốt làng mạc, ruộng đồng mà hóa “Ðại Hồ” dài tám mươi hai cây số, khúc dưới teo lại thành con suối róc rách mùa xuân.

*

Ðỉnh dốc.

Mặt hồ lặng như gương. Như thể đêm qua hồ cũng ngủ, ngủ ngon quá, đến nỗi buổi mai sương đã tan hết mà hồ vẫn chưa dậy, vẫn nằm yên để mây trôi soi cho rõ mồn một bóng mình...

Bến đò kia rồi. Một mái nhà, hai con thuyền, một cây bàng nhỡ. Lá bàng đã mở quá tai trâu, màu xanh có lẽ đã đậm gần bằng màu cốm giót nhưng trông vẫn non nớt. Trong nắng sớm những chiếc lá mởn ửng lên như những ngọn lửa xanh.

- Mình ra sớm quá. Giá cô chủ quán có gói mì tôm...

Cửa quán đã mở, lúc nãy thoáng bóng người.

- Cô hay bà...

- Em thấy trẻ. Ở đây buồn anh nhỉ.

Buồn thực. Một cái quán bé tí teo đứng lẻ loi bên bờ một cái hồ mênh mông. Ban ngày những hôm trời tươi tỉnh, ấm áp, bến đò rộn rịp, còn vui được. Nhưng vào tiết hay mưa gió bão bùng mà đêm nằm xa hẳn nhân quần, nghe mãi sóng ầm ào ngoài kia, thì dẫu dưới mái đủ hai trái tim vàng chắc hai bộ mặt già dặn cũng không khỏi ủ ê.

- Cái bến đò này tính theo xưa kia là ở lưng chừng núi. Ngay trước mặt mình, dưới vài mươi mét nước, trẻ từng chăn trâu, thả diều...

- Thật hả anh?

- Thật. Kìa, đã thêm người ra.



Thu Tứ
Thăm hồ T.B. năm 2007
Viết năm 2008