Trong số nho nghèo có văn tài xuất chúng, chắc chắn Nguyễn Công Trứ hay kể lể, than thở nhất: nào “Phận anh nghèo”, “Vịnh cảnh nghèo”, “Than cảnh nghèo”, “Tết nhà nghèo”, “Vui cảnh nghèo” v.v. Sợ thơ vắn tắt, không kể đủ được “phong vị” của “nó”, ông làm hẳn phú để tả cho kỹ. Bài phú về nghèo, chữ nghĩa mới giàu sao! Bị “chém cha” ác đến mức này, trách nào “cái khó” rồi giẫy đành đạch, lăn quay ra cho Nguyễn Công Trứ tha hồ “ngất ngưởng” (nhưng nó sẽ hồi sinh, rồi lại chết v.v.!). Chao ơi, từng khó ơi là khó như ông, cái lúc “dễ” thấm thía nói sao cho xiết.

(Thu Tứ)



Nguyễn Công Trứ, “Hàn nho phong vị phú”



Chém cha cái khó, chém cha cái khó,
Khôn khéo mấy ai, xấu xa một nó.
Lục cực bày hàng sáu, rành rành kinh huấn chẳng sai,
Vạn tội lấy làm đầu, ấy ấy ngạn ngôn hẳn có.
Kìa ai: bốn vách tường mo, ba gian nhà cỏ,
Đầu kèo mọt tạc vẽ sao, trước cửa nhện giăng màn gió.
Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồng,
Ống nứa đựng đầu kê đầu đỗ.
Đầu giường tre, mối dũi quanh co,
Góc tường đất, trùn lên lố nhố.
Bóng nắng giọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô,
Hạt mưa xoi hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngó .
Trong cũi, lợn nằm gặm máng, đói chẳng buồn kêu,
Đầu giàn, chuột lóc khua niêu, buồn thôi lại bỏ.
Ngày ba bữa, vỗ bụng rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no,
Đêm năm canh, an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ.
Ấm trà góp, lá bàng lá gối, pha mùi chát chát chua chua,
Miếng trầu têm, vỏ mận vỏ dà, buồn miệng nhai nhai nhổ nhổ.
Áo vải thô nặng trịch, lạnh làm mền, nực làm gối, bốn mùa thay đổi bấy nhiêu,
Khăn lau giắt đỏ lòm, giải làm chiếu, vận làm quần, một bộ ăn chơi quá thú.
Đỡ mồ hôi: võng lác, quạt mo,
Chống hơi đất: dép da, guốc gỗ.
Miếng ăn sẵn, cà non mướp luộc, ngon khéo là ngon,
Đồ chơi nhiều quạt, sậy điếu tre, của đâu những của.
Đồ chuyên trà, ấm đất sứt vòi,
Cuộc uống rượu, be sành chắp cổ.
Đồ cổ khí, bức tranh treo trên vách, khói bay lem luốc, mầu thủy mạc mờ mờ,
Của tiểu đồng, pho sách gác đầu giàn, gián nhấm lăm nhăm, dấu thổ châu đo đỏ.
Cỗ bài lá ba đời cửa tướng, hàng văn hàng sách lờ mờ,
Bàn cờ săng, bảy kiếp nhà ma, chữ nhật chữ điền xiêu xó.
Lộc nhĩ điền, lúa chất đầy rương,
Phương tịch cốc, khoai vừa một rỏ.
Tiêu dụng lấy chi mà phao phóng, thường giữ ba cọc ba đồng,
Mùa màng dành để có bao nhiêu, chừng độ một triêng một bó,
Mỏng lưng, xem cũng không giầu,
Nhiều miệng, lấy chi cho đủ.
Đến bữa, chưa sẵn bữa, con trẻ khóc dường ong,
Qua kỳ, lại hẹn kỳ, nhà nợ kêu như ó.
Thuốc men rắp bòn chài gỡ bữa, song nghĩ câu “ý dã”, thế nào cho đáng giá lương y,
Thầy bà mong dối trá kiếm ăn, lại nghĩ chữ “dũng như”, phép chi được nối danh pháp chủ.
Quẻ dã hạc, toan nhờ lộc thánh, trút muối bỏ bể, ta chẳng bõ bèn,
Huyệt chân long, toan bán đất trời, ngôi mả táng cha, tìm còn chửa chộ.
Buôn bán, rắp theo nghề đỏ, song lạ mặt, chúng hòng rước gánh, mập mờ nên hàng chẳng có lời,
Bạc cờ, toan gỡ cơn đen, chưa sẵn lưng, làng lại giành nơi, hỏi gạn mãi dạm không ra thổ.
Gấp khúc lươn, nên ít kẻ yêu vì,
Gương mắt ếch, biết vào đâu mượn mõ.
Đến lúc niên chung nguyệt quý, lấy chi tiêu đồng nợ đồng công?
Gặp khi chân sẩy đường cùng, nên phải tới cửa này cửa nọ.
Thân thỉ to to nhỏ nhỏ, ta đã mỏi cẳng ngồi trì,
Dần dà nọ nọ kia kia, nó những vuốt râu làm bộ.
Thầy tớ sợ men tìm đến cửa, ngảnh mặt cúi đầu,
Chị em e vất lấm vào lưng, chìa môi nhọn mỏ.
Láng giềng ít kẻ tới nhà,
Thân thích chẳng ai nhìn họ.
Mất việc, toan dở nghề “cơ tắc”, tủi con nhà mà hổ mặt anh em,
Túng đường, mong quyết chí “cùng tư”, e phép nước chưa nên gan sừng sỏ.
Cùng con cháu, thuở nói năng chuyện cũ, dường ngâm câu “lạc đạo vong bần”,
Gặp anh em, khi bàn bạc sự đời, lại đọc chữ “vi nhân bất phú”.
Tất do thiên, âu phận ấy là thường,
Hữu kỳ đức, ắt trời kia chẳng phụ.
Tiếc tài cả, phải phận ngưu bản trúc, dấu xưa ông Phó ông Hề,
Cần nghiệp nho, khi tạc bích tụ huỳnh, thuở trước chàng Khuông chàng Võ.
Nơi thành hạ, gieo cần câu cá, kìa kìa người quốc sĩ Hoài Âm,
Chốn lý trung, xách thớt chia phần, nọ nọ đấng mưu thần Dương Võ.
Khó ai bằng Mãi Thần, Mông Chính, cũng có khi ngựa cưỡi dù che,
Giàu ai bằng Vương Khải, Thạch Sùng, cũng có hội tường xiêu ngói đổ.
Mới biết: khó bởi tại trời, giàu là có số.
Dầu ai ruộng sâu trâu nái, đụn lúa kho tiền, cũng bất quá thủ tài chi lỗ.






___________________________
Theo
Thơ văn Nguyễn Công Trứ, nxb. Văn Học, VN, 1983:
Lục cực: sáu điều khổ cực: chết non, ốm đau, lo lắng, nghèo đói, hèn yếu, tật cấu.
Kinh huấn: điều dạy trong sách
Vạn tội...: do câu tục ngữ Hán: Vạn tội bất như bần: vạn tội chẳng gì bằng tội nghèo.
Mọt tạc vẽ sao: mọt đục thành từng vết như sao.
Trùn: giun.
Lóc: nhảy lên, leo lên: “Cá lóc lên bờ nằm chờ nước đến” (ca dao).
Người quân tử ăn...: do câu chữ Hán:
Quân tử thực vô cầu bão, ý nói: người quân tử chăm lo đạo lý, không lấy chuyện ăn ngon mặc đẹp làm điều.
Cửa thường bỏ ngỏ: do câu chữ Hán:
Thái bình chi thế, ngoại hộ bất bế, ý nói: đời no ấm, cửa ngoài không cần đóng (không có trộm cướp).
Lá gối: tiếng địa phương, lá vối.
Ðồ
cổ khí: đồ xưa, đồ lâu đời để lại.
Thủy mặc: vẽ bằng mực nho.
Thổ châu: đất son ngày xưa dùng thay mực đỏ để chấm câu.
Ba đời cửa tướng: thành ngữ, ý nói: lâu đời (ở cửa tướng suốt ba đời).
Bảy kiếp nhà ma: thành ngữ, cũng có nghĩa là rất lâu (làm ma đến bảy kiếp).
Chữ nhật chữ điền: đường kẻ trên bàn cờ thành những ô hình vuông, hình chữ nhật.
Lộc nhĩ điền: hoa lợi ruộng đất (nhĩ điền: ruộng của anh).
Tịch cốc: nhịn cơm, (tiếng của nhà tu hành), ý nói: khi nhịn cơm thì ăn khoai.
Triêng: tiếng địa phương, nghĩa là gánh.
Mỏng lưng: ít vốn.
Ý dã: sách thuốc có câu: y giả, ý dã, làm thuốc là lấy ý mà đoán bệnh.
Thầy bà: thầy đồng, bà cốt
Dũng như: các thầy cúng thường niệm câu chú: Cấp cấp như tuân lệnh, chắc là “cấp như” mà chép sai.
Pháp chủ: thầy phù thủy cao tay.
Dã hạc: tên sách nói về bói toán.
Huyệt
chân long: huyệt rồng, ngôi đất có rồng chầu, phát đế vương (danh từ các thầy địa lý thường dùng).
Chộ: tiếng địa phương, nghĩa là thấy.
Nghề đỏ: nghề buôn bán phát tài.
Rước gánh: đi đón gánh giùm cho những người đi chợ xa về; ở đây có nghĩa bị cướp, mất gánh.
Sẵn lưng: sẵn vốn.
Thổ: tiếng địa phương, nghĩa là nơi.
Dạm không ra thổ: tìm không được chỗ cho vay.
Gấp khúc lươn: như lươn cuộn khúc, ý nói gặp khó. “Anh hùng mà gấp khúc lươn, khi cuộn thì ngắn khi vươn thì dài” (ca dao).
Mượn mõ: vay mượn.
Niên chung nguyệt quý: năm cùng tháng tận, tức là ngày tết.
Thân thỉ: năn nỉ, van nài.
Ngồi trì: ngồi dai, không chịu về.
Cơ tắc: sơ đắc đạo, đói thì... ăn trộm.
Cùng tư: do chữ tiểu nhân cùng tư lạm: kẻ tiểu nhân cùng thì làm bậy.
Lạc đạo vong bần: vui đạo quên nghèo.
Vi nhân bất phú: làm điều nhân thì không giàu.
Tất do thiên: lấy ở câu: phú quý tất do thiên mệnh: giàu sang là do mệnh trời.
Hữu kỳ đức: lấy ở câu: Hữu kỳ đức tất hữu kỳ phận: có đức ắt có phần.
Phận ngưu bản trúc: chăn trâu, đắp đất.
Ông Phó: Phó Duyệt, người đời Thương, lúc nghèo phải đi gánh đất làm thuê, sau làm tướng giúp vua Bàn Canh sửa sang việc nước.
Ông Hề: Bách Lý Hề, người đời Chiến Quốc, lúc nghèo đi ở chăn trâu, sau làm tướng giúp Tần Công làm nên nghiệp bá.
Tạc bích, tụ huỳnh: xoi vách, nhặt đom đóm.
Chàng Khuông: Khuông Hành đời Hán, nhà nghèo ham học, không có đèn, phải xoi vách cho ánh sáng nhà bên cạnh chiếu sang mà đọc sách.
Chàng Võ: Võ tử, tức Xa Dận, người đời Tấn, nhà nghèo không có đèn, phải bắt đom đóm bỏ vào túi cho có ánh sáng mà học.
Quốc sĩ: người giỏi của một nước.
Quốc sĩ Hoài Âm: chỉ Hàn Tín, người đất Hoài Âm, lúc nghèo khổ thường câu cá ở dưới thành đem ra bán ở chợ, không đủ nuôi thân, phải xin cơm ăn, bị người ngoài chợ làm nhục mà vẫn chịu nhịn, về sau làm đại tướng giúp Bái công (Lưu Bang) dựng cơ nghiệp nhà Hán.
Mưu thần Dương Võ: chỉ Trần Bình, người đất Dương Võ, lúc nghèo làm mõ chia phần làng, về sau làm mưu thần cho Bái công, đồng thời với Hàn Tín.
Mãi Thần: Chu Mãi Thần, người đời Hán, nhà nghèo mà ham học, về sau làm nên giàu sang.
Mông Chính: Lã Mông Chính, người đời Tống, cũng thế.
Vương Khải, Thạch Sùng: hai người giàu có, về sau nhà tan cửa nát. Tục truyền Thạch Sùng chết hóa thành con mối cứ nghiến răng vì tiếc của.
Thủ tài chi lỗ: đứa mọi giữ của.