|
“Bài thơ khác từ thơ Tản Đà”
Bùi Giáng có lần viết: “Thơ là cái gì không thể bàn tới, không thể dịch, diễn gì được (...) muốn bàn tới thơ, diễn dịch thơ, người ta chỉ có thể làm một bài thơ khác”.(1)
Sau đây là một số “bài thơ khác” mà chúng tôi đã làm sau khi đọc thơ văn Tản Đà.
Kỷ niệm hái hoa đào
“Tết Nguyên đán năm Duy Tân thứ bảy, tôi ăn tết chơi ở tỉnh khác, giữ nhà cho một người bà con (…) Trưa hôm ba mươi (…) nhà lan thanh vắng, xảy một người bạn cũng ngụ cư ở láng giềng đấy đến chơi, 13 tuổi, tóc giở lòa xòa buông quá vai (…) Nhân tắm gội xong, thay quần áo sạch, cùng ra vườn sau hái hoa đào. Một người trèo lên cây hái hoa, đưa người đứng dưới cầm. Người nọ lên, người kia lại xuống (…) Khách địa tha hương, giai nhân tài tử, đầu xanh mây biếc, người trắng huê hồng, trời Nam ai vẽ bức Thiên Thai mà mỗi bên bớt đi một (…) Người bạn tôi lên cây hái hoa (…) tôi đứng dưới gốc (…) nhìn theo ra đầu cành (…) năm ngón tay trắng muột vin sát cành hoa đào, vừa đẹp, vừa kháu, vừa xinh, vừa hay (...) Tiếc thay cho đời người sáu bảy mươi năm, mỗi năm ba trăm sáu mươi ngày, mà chỉ một năm ấy, một ngày ấy, được thú chơi như thế ấy! (…) Có khi nhớ cảnh giang hồ, vườn hồng thăm hỏi, thời hoa đào năm nọ còn cười cành xuân đã bẻ cho người đâu xa”.(2)
“Kỷ niệm riêng của một người” sao mà thơ thế. Thử ca:
Thiên Thai nào phải đâu xa Người trèo kẻ đợi dưới hoa: tiên rồi! Dù bao nhiêu lượt xuân hồi Ba mươi tháng chạp một đời không hai!
rồi lại thử ca:
Nhớ ơi “người trắng huê hồng” Bạn tôi tôi bạn Bồng Bồng Lai Lai Xuân bao nhiêu, bấy đến rày Chẳng xuân nào thắm như ngày đầu xanh...
Còn chơi
“Ai đã hay đâu tớ chán đời Đời chưa chán tớ, tớ còn chơi Chơi cho thật chán, cho đời chán Đời chán nhau rồi tớ sẽ thôi
Nói thế can gì tớ đã thôi Đời đương có tớ, tớ còn chơi Người ta chơi đã già đời cả Như tớ năm nay mới nửa đời
Nửa đời chính độ tớ đương chơi Chơi muốn như sao thật sướng đời Người đời ai có chơi như tớ Chơi cứ bằng văn mãi chửa thôi
Chơi văn sướng đến thế thì thôi Một mảnh trăng non chiếu cõi đời (3) Văn vận nước nhà đương buổi mới Như trăng mới mọc, tớ còn chơi
Làng văn chi thiếu khách đua chơi Dan díu, ai như tớ với đời Tớ đã với đời dan díu mãi Muốn thôi, đời cũng chửa cho thôi
Đời đương dan díu, chửa cho thôi Tớ dám xa xôi để phụ đời Vắng tớ bấy lâu, đời nhớ tớ Nhớ đời, nên tớ vội ra chơi
Tớ hãy chơi cho quá nửa đời Đời chưa quá nửa, tớ chưa thôi Tớ thôi, tớ nghĩ buồn cho tớ Buồn cả cho đời vắng bạn chơi
Nào những ai đâu, bạn của đời? Sao mà bỏ vắng, ít ra chơi? Chờ ai chờ mãi, ai đâu tá? Hay ngán cho đời chẳng muốn chơi?
Nếu tớ như ai: cũng ngán đời Đời thêm vắng bạn lấy ai chơi? Cuộc đời tớ nghĩ chưa nên ngán Nếu ngán thời xưa tớ đã thôi
Tớ nhớ năm xưa nửa ngán đời Nghĩ đi, nghĩ lại, lại ra chơi Mê chơi cho tớ thành dan díu Đời dẫu cho thôi, tớ chửa thôi
Nghĩ tớ bao nhiêu, lại nghĩ đời Nghĩ đời như thế, dám nào thôi Còn đời, còn tớ, còn chơi mãi Chơi mãi cho đời có bạn chơi
Tớ muốn chơi cho thật mãn đời Đời chưa thật mãn, tớ chưa thôi Chẳng hay đời tớ lâu hay chóng? Dù chóng hay lâu, tớ hãy chơi
Trăm năm, tớ độ thế mà thôi Ức, triệu, nghìn năm chửa hết đời Chắc có một phen đời khóc tớ Đời chưa khóc tớ, tớ còn chơi
Trăm năm còn độ bấy nhiêu thôi Ngoài cuộc trăm năm tớ dặn đời: Ức, triệu, nghìn năm đời nhớ tớ Tớ thôi, tớ cũng hãy còn chơi
Bút đã thôi rồi, lại chửa thôi Viết thêm câu nữa, hỏi đời chơi “Lộng hoàn” này điệu từ đâu trước?(4) Họa được hay không? Tớ đố đời!”.
Theo thơ mà tính thì thấy lúc sáng tác bài này, Tản Đà vừa chẵn năm mươi.
“Mươi năm” người hãy “còn chơi” “Mốt năm” người đã về nơi suối vàng… Ngắn thay một cuộc tuần hoàn Dài thay một tiếng thơ vang tận trời!(5)
Nhớ chị hàng cau
“Ngồi buồn đâm nhớ chị hàng cau Khoảng mấy năm trời ở những đâu? Khăn vải chùm hum lâu vắng mặt Chiếu buồm che giữ có tươi mầu? Ai đương độ ấy lăm răm mắt Tớ đã ngày nay lún phún râu Bèo nước hợp tan người mỗi nẻo Cậy ai mà nhắn một đôi câu”.
Đọc thơ “Nhớ chị”, thử làm thơ “Chị nhớ”:
Ế cau ngồi nhớ học trò Đỗ chưa, hay hãy còn chờ khoa sau? Nước bèo ngỏ mới đôi câu Biết ai rồi có tưởng nhau chăng mà...
Con gái hái dâu
“Anh có yêu em đứng lại mà Ở đây vắng vẻ quãng đường xa Thuyền quyên có ý trông theo thế Quân tử vô tình bước mãi a? Rồi nữa rồng mây ra mỗi ngả Còn đâu huê nguyệt nữa đôi ta Hỡi anh áo trắng cầm ô máy Có phải nhân tình chớ vội qua”.
Áo ô ai diện nên oai Để cho ai đứng trông hoài mãi theo Công danh ai nặng đuổi đeo Cho ai theo với gieo neo gánh cùng!
Trông giăng cảm tưởng
“Đêm thu giăng sáng một trời Một mình ngồi tưởng sự đời nghĩ quanh. Nghĩ cho muôn vật hóa sinh Ở trong vũ trụ cái hình ra chi! Trăng kia tròn được mấy khi, Hoa kia nở được mấy thì hỡi hoa? Gái tơ quá lứa đã già, Con tằm rút ruột thời là dộng non. Khúc sông bồi lấp nên cồn, Dâu xanh bãi bể, đá mòn nước khe. Đồng không con đóm lập lòe, Khách trần lối ấy đi về những ai? Hình kia đúc tự thợ trời, Tình kia họa mới ra ngoài khuôn xanh. Vọng phu còn đá còn trinh, Tiền Đường còn sóng, trung trinh hãy còn. Dẫu cho sông cạn đá mòn, Trung hồn khôn thác, trinh hồn khôn tan. Cho hay những khách trần hoàn, Nghìn xưa ở lại thế gian mấy mà! Trông lên một mảnh giăng tà, Soi chung kim cổ biết là những ai? Mà người kim cổ những ai?...”.
Hình tan, tình hãy còn đây Ai? Ai? Chỉ bóng trăng này biết thôi! Đêm thu ngồi tưởng sự đời Buồn, tay chép vội đôi lời thở than...
Thu Tứ
__________ (1) Bùi Giáng, Ði vào cõi thơ, quyển I, nxb. Ca Dao, SG, 1969: “Thơ là cái gì không thể bàn tới, không thể dịch, diễn gì được (...) muốn bàn tới thơ, diễn dịch thơ, người ta chỉ có thể làm một bài thơ khác”. (2) Trích từ “Bài chép mộng” trong Khối tình bản phụ, in lại trong Tuyển tập Tản Ðà, nxb. Hội Nhà Văn, 2002. (3) Các sách Tản Đà tự xuất bản đều có đóng dấu mảnh trăng lưỡi liềm, ngụ ý tài nghệ mình chưa tới đỉnh. (4) Điệu này đoạn thơ nào cũng dùng ba vần “chơi”, “đời”, “thôi”. Tản Đà tự đặt ra! (5) Xem bài thơ “Hầu trời” của Tản Đà.
|
|